TÔNG THƯ
về
Hiến Chế Phụng Vụ Thánh
Tông Thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
nhân dịp kỷ niệm 40 năm ban hành
Hiến Chế "Sacrosanctum Concilium" về Phụng Vụ Thánh.Bức Tông Thư thứ 43 tương đối ngắn của ĐTC GPII nhân dịp mừng kỷ niệm 40 năm Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này tất cả gồm có 16 đoạn, ngoại trừ đoạn mở (1) và kết (16) ngắn, được chia ra làm 3 phần rõ rệt: phần thứ nhất có 4 đoạn (2-5), phần hai có 5 đoạn (6-10) và phần ba cũng có 5 đoạn (11-15). Phần nhất là để ôn lại bản Hiến Chế Phụng Vụ Thánh; phần hai để xét lại việc áp dụng thực hành văn kiện này trong 40 năm qua, và phần ba để thực hiện những gì cần thiết hầu kiện toàn Hiến Chế Phụng Vụ Thánh theo tinh thần của Công Đồng.
1. “Thần linh và Hiền thê lên tiếng ‘Hãy đến’. Ai nghe thì nói ‘Xin đến’. Ai khát hãy đến, hỡi kẻ ước muốn hãy uống nước sự sống không phải tốn phí” (Rev. 22:17). Những lời này của Sách Khải Huyền âm vang trong tâm trí của Tôi khi Tôi nhớ lại 40 năm trước đây, vào đúng ngày 4/12/1963, vị tiền nhiệm đáng kính của Tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành Hiến Chế “Sacrosanctum Concilium” về Phụng Vụ Thánh. Thật vậy, Phụng Vụ còn là gì nếu không phải là tiếng của Thánh Linh cũng như của Hiền thê là Giáo Hội đồng thanh kêu lên cùng Chúa Giêsu: ‘Hãy đến’? Phụng vụ là gì nếu không phải là nguồn “nước sự sống” tinh tuyền và nguyên thủy được cống hiến cho những ai khao khát lãnh nhận được tặng ân nhưng không của Thiên Chúa (x Jn 4:10)?
Đúng thế, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này, Công Đồng Chung Vaticanô II, hoa trái đầu mùa của “đại hồng ân sinh phúc cho Giáo Hội trong thế kỷ 20” (1), Thánh Thần đã nói với Giáo Hội, không ngừng dẫn dắt thành phần môn đệ của Chúa “vào tất cả sự thật” (Jn 16:13). Việc cử hành mừng kỷ niệm 40 năm của biến cố này là một cơ hội tốt để tái nhận thức những đề tài sâu xa của việc canh tân phụng vụ theo ý muốn của các Nghị Phụ Công Đồng, để thẩm định vấn đề tiếp nhận việc canh tân này cũng như để hướng về tương lai.
Trong phần nhất, ĐTC ôn lại Hiến Chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Chung Vaticanô II, bằng cách chẳng những nhắc lại một số nhận định then chốt của Công Đồng về Phụng Vụ (6-8) mà còn nhấn mạnh đến một số điểm quan trọng trong Hiến Chế quan trọng này nói riêng, như vấn đề Thánh Nhạc và Nghệ Thuật Thánh (9-10).
Một thoáng nhìn về Bản Hiến Chế của Công Đồng
2. Qua giòng thời gian, căn cứ vào các hoa trái gặt hái được, người ta rõ hơn bao giờ hết tầm quan trọng của văn kiện “Sacrosanctum Concilium”. Văn kiện này đã trình bày sáng tỏ những nguyên tắc làm nền tảng cho tập truyền phụng vụ của Giáo Hội, cũng như làm khởi sắc cho việc canh tân lành mạnh theo giòng thời gian (2). Các Nghị Phụ của Công Đồng đã đặt Phụng Vụ vào bối cảnh của lịch sử cứu độ, một lịch sử nhắm đến việc cứu độ nhân loại và việc hiển vinh Thiên Chúa. Việc cứu độ này được bắt đầu tấu lên nơi cử chỉ thần linh kỳ diệu ở Cựu Ước và được Chúa Kitô làm hoàn trọn, nhất là bằng mầu nhiệm vượt qua với cuộc khổ nạn phúc đức, tử giá, phục sinh và thăng thiên vinh hiển của Người (3). Tuy nhiên, việc cứu độ này không phải để loan báo mà còn phải sống nữa, chính vì vậy mà “toàn thể đời sống phụng vụ được bắt nguồn từ Hiến Tế và Các Bí Tích” (4). Chính Chúa Kitô đã hiện diện một cách đặc biệt nơi những tác động phụng vụ, liên kết Giáo Hội với chính mình Người. Bởi thế mọi việc cử hành phụng vụ mới là việc làm của Chúa Kitô Tư Tế và của Nhiệm Thể Người, “một việc tôn thờ công khai toàn vẹn” (5), làm cho người tham dự như được tiên hưởng Phụng Vụ của Giêrusalem thiên đình (6). Vì vậy, “Phụng Vụ là tột đỉnh hướng tới của hoạt động Giáo Hội, đồng thời còn là nguồn mạch phát xuất tất cả mọi nhân đức của Giáo Hội” (7).
3. Quan điểm về phụng vụ của Công Đồng không chỉ gói gọn vào phạm vi nội tại của Giáo Hội, mà là hướng về chân trời của toàn thể nhân loại nữa. Đúng thế, trong việc Người chúc tụng Cha, Chúa Kitô liên kết mình với toàn thể cộng đồng con người, và Người làm như thế một cách đặc biệt qua sứ vụ nguyện cầu của một “Giáo Hội không ngừng chúc tụng Chúa và cầu bầu ơn cứu độ cho toàn thế giới, chẳng những bằng việc cử hành Thánh Thể mà còn bằng những đường lối khác nữa, nhất là bằng việc đọc Kinh Thần Vụ” (8).
Theo quan điểm của hiến chế "Sacrosanctum Concilium", đời sống phụng vụ của Giáo Hội có tính cách vươn rộng theo chiều kích vũ trụ và toàn cầu, ghi đậm nét thời gian và không gian của con người. Theo quan điểm này, người ta cũng hiểu được cái chú trọng mới được bản Hiến Chế này cống hiến cho Năm Phụng Vu, đó là cách thức Giáo Hội lập lại mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô và sống lại mầu nhiệm này (9).
Nếu Phụng Vụ là tất cả những điều ấy thì Công Đồng đã có lý để xác nhận rằng hết mọi tác động phụng vụ “là tác động thánh hảo đệ nhất, không có một hành động nào khác của Giáo Hội tương đương với giá trị của tác động phụng vụ này ở cùng một cấp độ” (10). Ngoài ra, Công Đồng còn nhìn nhận rằng “Phụng Vụ thánh không là tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội” (11). Thật vậy, một mặt Phụng Vụ bao hàm việc loan báo Phúc Âm, mặt khác, lại cần đến chứng từ của Kitô hữu trong giòng lịch sử. Mầu nhiệm được phác họa cho việc giảng dạy và giáo lý, một mầu nhiệm được đức tin lãnh nhận và được Phụng Vụ cử hành, cần phải khuôn đúc toàn thể đời sống của người tín hữu, thành phần được kêu gọi để loan báo tin mừng của phụng vụ trên thế giới (12).
4. Trong số những thực tại khác nhau được hàm chứa nơi việc cử hành phụng vụ, Hiến Chế này đặc biệt chú trọng tới tầm quan trọng của thánh ca “musica sacra”. Công Đồng nâng cao thánh ca khi nói đến mục đích của nó là “vinh hiển Thiên Chúa và việc thánh hóa tín hữu” (13). Thật vậy, thánh nhạc là một phương tiện thuận lợi để làm cho tín hữu dễ dàng chủ động tham dự vào tác động linh thánh, như đã được vị tiền nhiệm của Tôi là Thánh Piô X mong muốn trong văn kiện motu proprio “Tra le Sollecitudini” của Ngài, một văn kiện được Ngài ban hành cách đây đúng 100 năm. Chính cuộc mừng kỷ niệm này mới đây đã cho Tôi cơ hội để xác nhận là, theo những điều hướng của hiến chế “Sacrosanctum Concilium” (14), cần phải bảo trì ca nhạc và làm tăng thêm vai trò của nó trong các việc cử hành phụng vụ, bằng cách chú trọng tới chính tinh chất của Phụng Vụ cũng như cảm thức của thời đại chúng ta cũng như đến các truyền thống ca nhạc ở các miền đất khác nhau trên thế giới.
5. Một đề tài phong phú khác được khai triển trong bản Hiến Chế của Công Đồng này là đề tài liên quan đến nghệ thuật thánh. Công Đồng đã minh định là việc thờ phượng có thể sáng ngời nhờ việc trang trí cùng vẻ đẹp của nghệ thuật phụng vụ, và việc thờ phượng này sẽ tiếp tục giữ một địa vị quan trọng trong thời của chúng ta đây. Để đạt được mục đích này, cần phải khởi xướng việc huấn luyện những công nhân khéo léo cùng với những chuyên viên nghệ thuật, được kêu gọi thực hiện việc kiến thiết cùng với kiểu cách của những dinh thự được ấn định dùng vào việc thờ phượng (15). Căn bản của những chiều hướng này đó là quan điểm về nghệ thuật, nhất là nghệ thuật thánh, một thứ nghệ thuật liên hệ với “vẻ đẹp thần linh vô cùng, một vẻ đẹp cần phải được thể hiện một cách nào đó nơi các công trình của con người” (16).
Từ Việc Canh Tân đến Tầm Mức Thâm Sâu Hơn
Trong phần thứ hai này, ÐTC nhấn mạnh đến việc kiểm thảo sống phụng vụ (6), đến việc trung thành với ý hướng của Công Ðồng Vaticanô II về việc canh tân phụng vụ (7), đến tầm quan trọng của Lời Chúa (8) cũng như đến Ngày Chúa Nhật (9), đến việc sống đạo theo Phụng Vụ bằng đời sống cầu nguyện (10).
6. Qua 40 năm nhận định, đây là dịp để thẩm định mức tiến bộ của việc canh tân phụng vụ này cho tới nay. Có những dịp Tôi đã đề nghị thực hiện một thứ gọi là kiểm thảo lương tâm liên quan đến việc chấp nhận Công Đồng Chung Vaticanô II (17). Việc kiểm thảo này không thể châm chước đối với đời sống phụng vụ và bí tích. “Phụng vụ đã được sống như là ‘nguồn mạch và tột đỉnh’ của sinh hoạt Giáo Hội chưa, theo giáo huấn của hiến chế 'Sacrosanctum Concilium'”? (18). Việc tái nhận thức giá trị của Lời Chúa được việc canh tân Phụng Vụ phác họa đã có một tác dụng tích cực trong việc cử hành phụng vụ của chúng ta chưa? Phụng Vụ đã đi vào cuộc sống cụ thể của người tín hữu ở mức độ nào và Phụng Vụ đã phản ảnh nhịp sống của các cộng đồng riêng biệt ở mức độ nào? Phụng vụ có được hiểu là phương tiên nên thánh, là một nội lực của hoạt động tông đồ và sứ vụ của Giáo Hội hay chăng?
7. Việc công đồng canh tân Phụng Vụ được thể hiện rõ ràng nhất nơi việc phát hành các sách về phụng vụ. Sau giai đoạn khởi đầu là giai đoạn từ từ thêm các sách đổi mới về việc cử hành phụng vụ, đến giai đoạn cần phải đi sâu hơn vào những kho tàng cùng những chất chứa nơi những việc cử hành phụng vụ này. Tính cách sâu xa này cần phải được thực thi nguyên tắc hoàn toàn trung thành với Sách Thánh và Truyền Thống là những gì được Công Đồng Chung Vaticanô II đặc biệt diễn giải với thẩm quyền của mình, một Công Đồng có những giáo huấn được Huấn Quyền sau đó xác nhận và khai triển. Việc trung thành này trước hết áp dụng cho tất cả những ai thuộc hàng giáo phẩm có “nhiệm vụ hiến dâng việc tôn thờ của Kitô giáo lên Vị Thần Linh Cao Cả và nhiệm vụ điều hành nó theo những chỉ thị của Chúa cùng với luật lệ của Giáo Hội” (19); việc trung thành này cũng bao gồm cả toàn thể cộng đồng giáo hội “theo tính cách đa dạng của bậc sống, vai trò và việc tham dự thật sự” (20).
Theo chiều hướng này thì hơn bao giờ hết lại càng cần phải cổ võ sinh hoạt phụng vụ trong các cộng đồng của chúng ta, bằng một cuộc huấn luyện đầy đủ cho các vị thừa tác viên cũng như cho tất cả mọi tín hữu, nhắm đến việc tham dự một cách trọn vẹn, ý thức và chủ động vào các việc cử hành phụng vụ theo ý hướng của Công Đồng (21).
8. Bởi thế, vấn đề cần thiết đó là chương trình mục vụ về phụng vụ được thi hành hoàn toàn trung thành với những lãnh vực mới. Qua chương trình này, cần phải làm sống lại niềm hứng khởi đối với Lời Chúa theo chiều hướng của Công Đồng trong việc muốn có “những bài đọc Thánh Kinh dồi dào hơn, đổi khác hơn và chọn lọc hơn” (22). Chẳng hạn những bài sách thánh mới cho thấy việc chọn lựa nhiều các đoạn Thánh Kinh đã làm thành một nguồn mạch bất tận cho Dân Chúa kín múc. Thật vậy, chúng ta không được quên rằng “trong việc lắng nghe lời Chúa, Giáo Hội được xây dựng và phát triển; chúng ta cũng không được quên những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã thi hành trong lịch sử cứu độ là những gì, theo sự thật mầu nhiệm của chúng, được phản ảnh qua các dấu hiệu của việc cử hành phụng vụ” (23). Trong việc cử hành phụng vụ, Lời Chúa thể hiện tất cả ý nghĩa của mình, phấn khích đời sống Kitô hữu trong việc liên tục canh tân mình, vì “những gì đã nghe thấy nơi việc cử hành phụng vụ thì sau đó được mang ra tác hành trong đời sống” (24).
9. Việc tưởng nhớ đặc biệt đó là biến cố Phục Sinh của Chúa Kitô vào Chúa Nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh là trọng tâm của đời sống phụng vụ, như “nền tảng và là cốt lõi của toàn thể phụng niên” (25). Việc chăm sóc mục vụ thật sự đã thực hiện được những nỗ lực đáng kể nhờ đó giá trị của Chúa Nhật hiện được tái nhận thức. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh ở điểm này, đó là “những kho tàng tu đức và mục vụ của Chúa Nhật, như đã được truyền lại cho chúng ta, thật sự lớn lao. Khi hiểu được trọn vẹn tính cách quan trọng cùng những ý nghĩa ngày của Chúa thì Chúa Nhật trở thành một tổng hợp cho đời sống Kitô hữu và là điều kiện để sống ngày này đàng hoàng nữa” (26).
10. Đời sống tu đức của người tín hữu được nuôi dưỡng bằng việc cử hành phụng vụ. Chính từ Phụng Vụ mới cần phải sống theo nguyên tắc đã được Tôi đề ra trong Tông Thư “Mở Màn Tân Thiên Kỷ”, đó là “việc huấn thánh đòi đời sống Kitô hữu nổi bật trên hết trong nghệ thuật cầu nguyện” (27). Hiến chế "Sacrosanctum Concilium" đã dẫn giải nhu cầu khẩn trương này bằng một viễn quan, khi phấn khích cộng đồng Kitô hữu hãy tăng gia đời sống nguyện cầu, chẳng những bằng Phụng Vụ mà còn bằng “những thực hành đạo đức” nữa, miễn là những thực hành này hợp với Phụng Vụ, nếu chúng phát xuất từ Phụng Vụ và dẫn đến Phụng Vụ càng hay (28). Kinh nghiệm mục vụ trong những thập niên vừa qua đã xác nhận cái trực giác này của Hiến Chế này. Theo chiều hướng ấy có việc góp phần quí báu của Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích với Bản Hướng Dẫn về Việc Đạo Đức Phổ Thông và Phụng Vụ (29). Rồi chính Tôi, qua Tông Thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria” (30) và việc mở Năm Mân Côi, muốn làm sáng tỏ những gì phong phú về chiêm niêm của kinh nguyện truyền thống này, một kinh nguyện đã được thiết lập lâu đời nơi Dân Chúa, và Tôi khuyên dụ hãy tái nhận thức kính nguyện này như là một đường lối thuận lợi cho việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô nơi học đường của Mẹ Maria.
Những viễn ảnh
Trong phần thứ ba, ÐTC công nhận là việc canh tân Phụng Vụ đã gặp trục trặc, nhưng vẫn có những dấu hiệu khao khát thần linh, một khao khát chỉ được thỏa mãn nơi việc gặp gỡ Chúa Kitô (11), nơi Phụng Vụ Thánh Thể (12), trong thinh lặng nguyện cầu theo gương Chúa Kitô (13), bằng Phụng Vụ Giớ Kinh (14), theo hướng dẫn thẩm quyền của Giáo Hội để theo đúng tinh thần canh tân phụng vụ của Công Ðồng Chung Vaticanô II (15).
11. Nhìn về tương lai, Phụng Vụ cần phải đáp ứng một vài thách đố. Trong giòng thời gian 40 năm này, xã hội đã trải qua những đổi thay sâu xa, trong số đó có những thay đổi rất gian nan khốn khó đối với cuộc dấn thân của Giáo Hội. Chúng ta đang đối diện với một thế giới làm cho những dấu hiệu của Phúc Âm đang bị suy yếu đi, kể cả ở những miền đất có truyền thống Kitô giáo lâu đời. Đây là thời gian của một cuộc tân truyền bá phúc âm hóa. Phụng vụ phải trực diện với cuộc thách đố này.
Thoạt nhìn thì đường như phụng vụ bị loại trừ ở một xã hội đang bị tục hóa rất nhiều. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, bất chấp vấn đề tục hóa, thời đại của chúng ta lại hiện lên một nhu cầu mới về linh đạo dưới rất nhiều hình thức. Làm sao người ta lại không thấy nơi hiện tượng này chứng cớ về sự kiện tận là thâm tâm của mình con người không thể nhận chìm được nỗi khát khao Thiên Chúa? Có nhiều vấn nạn chỉ tìm thấy giải đáp nơi việc giao tiếp riêng tư với Chúa Kitô mà thôi. Chỉ khi nào sống thân mật với Người thì hết mọi cuộc sống mới có ý nghĩa, và mới có thể tiến đến chỗ cảm nghiệm được niềm vui được Thánh Phêrô nói lên trên núi Biến Hình: “Lạy Thày chúng con được ở đây thì hay quá” (Lk 9:33 par).
12. Nếu có nỗi khát mong được gặp gỡ Thiên Chúa ấy, thì Phụng Vụ mới cung cấp câu giải đáp sâu xa nhất và hiệu nghiệm nhất. Phụng Vụ làm điều này nhất là nơi Thánh Thể, một bí tích giúp chúng ta được kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô và được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Người. Tuy nhiên, Các Vị Mục Tử cần phải thực hiện điều này để làm sao cho ý nghĩa của mầu nhiệm ấy thấm nhập vào lương tâm con người, bằng việc tái nhận thức và thực hành một thứ nghệ thuật ‘thần nhiệm’ được các Vị Giáo Phụ yêu chuộng (31). Các Vị Chủ Chăn đặc biệt có nhiệm vụ phải cổ võ những việc cử hành xứng đáng, chú trọng tới những tầng lớp dân chúng khác nhau, như trẻ em, giới trẻ, người lớn, lão thành và người khuyết tật. Tất cả cần phải cảm thấy họ được cộng đoàn của chúng ta đón nhận, nhờ đó có thể hít thở bầu khí của cộng đồng tín hữu tiên khởi, đó là “họ chuyên chú lắng nghe giáo huấn của các vị tông đồ và vào cuộc sống chung, vào việc bẻ bánh và việc nguyện cầu” (Acts 2:42).
13. Một khía cạnh cần phải được dấn thân hơn nữa vun trồng trong các cộng đồng của chúng ta đó là kinh nghiệm thinh lặng. Chúng ta cần phải thinh lặng “để lãnh nhận trong tâm hồn mình âm vang trọn vẹn của tiếng nói Thánh Linh, cũng như để liên kết nguyện cầu một cách tâm giao hơn nữa với Lời Chúa cũng như với tiếng nói công khai của Giáo Hội” (32). Trong một xã hội sống hào nhoáng, một xã hội bị rối loạn bởi những lời đồn thổi và bị phân tâm nơi những gì mau qua chóng hết thì cần phải tái nhận thức được giá trị của thinh lặng. Không phải là tình cờ mà ngoài việc thờ phượng của Kitô giáo, còn có việc thực hành suy niệm đang được lan tràn làm tăng thêm tầm quan trọng cho việc phản tỉnh. Tại sao lại không dám theo sư phạm để thực hiện một cuộc giáo dục đặc biệt về sự thinh lặng trong giới hạn của kinh nghiệm Kitô giáo nhỉ? Chúng ta phải lấy gương sống của Chúa Giêsu, Đấng “đã chỗi dạy đi đến một nơi cô tịch mà cầu nguyện” (Mk 1:35). Phụng vụ, trong những thời khắc và dấu hiệu khác nhau của mình, không thể bỏ qua cái thinh lặng này.
14. Chương trình mục vụ về phụng vụ, khi nói đến những việc cử hành khác nhau, cần phải mớm thêm cả hương vị nguyện cầu nữa. Việc này chắn chắn được thực hiện khi chú trọng tới khả năng của các tín hữu cá biệt, theo hoàn cảnh sống khác nhau về tuổi tác và trình độ giáo dục của họ; thế nhưng việc này cũng được thực hiện nữa nếu không thỏa nguyện với những gì là “tối thiểu”. Khoa sư phạm của Giáo Hội là ở chỗ “dám làm”. Cần phải giới thiệu cho tín hữu việc cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh, “vì đó là lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, là nguồn mạch đạo hạnh và là dưỡng chất cho việc cầu nguyện tư riêng” (33). Đây không phải là một tác động cá nhân hay tư riêng “mà là việc thuộc về toàn thể Thân Mình của Giáo Hội. […] Bởi thế, nếu tín hữu được triệu hợp cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh và nếu họ hợp lại với nhau, đồng thanh nhất trí, họ bộc lộ cho thấy Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô” (34). Việc chú trọng đặc biệt này đối với vấn đề cầu nguyện theo phụng vụ như thế không được trở nên căng thẳng đối với việc cầu nguyện theo cá nhân, trái lại, việc cầu nguyện theo phụng vụ mặc lấy và cần đến việc cầu nguyện theo cá nhân (35), cùng bao gồm nó với những hình thức khác của việc cầu nguyện cộng đồng, nhất là khi việc cầu nguyện cộng đồng này được Thẩm Quyền Giáo Hội công nhận và khuyến lhích (36).
15. Phận sự của các Vị Chủ Chăn là những gì không thể châm chước, trong việc giáo dục cầu nguyện, nhất là trong việc cổ võ đời sống phụng vụ. Nó bao hàm nhiệm vụ nhận thức và hướng dẫn. Nhiệm vụ này không được nhận định như là một nguyên tắc cứng cỏi, ngược lại với nhu cầu của tinh thần Kitô giáo phó mình cho tác động của Thần Linh Chúa, Đấng chuyển cầu trong chúng ta và “cho chúng ta bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26). Trái lại, qua việc hướng dẫn của các Vị Chủ Chăn, cần thực hiện nguyên tắc “bảo đảm” theo dự định của Thiên Chúa đối với Giáo Hội, một Giáo Hội được quản trị nhờ Thánh Linh hỗ trợ. Việc canh tân phụng vụ được thể hiện trong những thập niên này đã cho thấy cách thức có thể hòa hợp cái qui tắc có thể bảo đảm Phụng Vụ giữ được căn tính của mình cùng với tác hành thích hợp của mình, mà vẫn có chỗ cho việc sáng tạo và thích nghi, khiến nó gần gũi với những nhu cầu minh nhiên của các miền đất khác nhau, các hoàn cảnh khác nhau và các thứ văn hóa khác nhau. Nếu không tôn trọng qui chuẩn phụng vụ, có những lúc thậm chí người ta tiến đến chỗ thực hiện những lạm dụng trầm trọng làm lu mờ đi thực tại của mầu nhiệm và tạo nên tình trạng phiền toái cũng như căng thẳng nơi Dân Chúa (37). Những lạm dụng như vậy không hề có liên quan gì tới tinh thần đích thực của Công Đồng hết, và là những lạm dụng cần phải được Các Vị Mục Tử sửa chữa bằng một thái độ mạnh mẽ khôn khéo.
Kết luận
16. Trong đời sống của Giáo Hội, việc ban hành Hiến Chế phụng vụ này đã đánh dấu một hết sức giai đoạn quan trọng cho việc phát động và phát triển về Phụng Vụ. Giáo Hội, được sinh động bởi hơi thở Thần Linh, sống sứ vụ của mình “là bí tích, tức là dấu hiệu và là dụng cụ cho mối hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa cũng như cho mối hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (38), thấy được nơi Phụng Vụ cái thể hiện cao cả nhất cho mầu nhiệm và thỉc tại của mình.
Trong Chúa Giêsu Kitô và trong Thần Linh của Người, toàn thể cuộc sống Kitô hữu trở thành “một hy tế sống động, thánh hảo và đáng Chúa chấp nhận”, “một việc tôn thờ linh thiêng” đích thực (Rm 12:1). Thật vậy, Mầu nhiệm được hiện thực nơi Phụng Vụ thực là cao cả. Mầu nhiệm này hướng về trái đất một thoáng nhìn của Trời Cao làm cho cộng đồng tín hữu được nâng lên, hợp với cuộc xướng hát của Giêrusalem trên trời, hát bài thánh ca chúc tụng ngàn đời: "Sanctus, Sanctus, Sanctus, Dominus Deus Sabaoth. Pleni sunt caeli et terra gloria tua. Hosanna in excelsis!" - “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Trời đất đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!”.
Đang hiện lên có một “thứ linh đạo về phụng vụ” ở vào đầu thiên niên kỷ đây, một linh đạo làm cho người ta nhận thức được rằng Chúa Kitô là vị đệ nhất “phụng gia”, Đấng đã không thôi tác hành trong Giáo Hội cũng như trên thế giới bằng quyền năng của mầu nhiệm vượt qua được cử hành liên tục, và là Đấng liên kết Giáo Hội với bản thân Người để chúc tụng Cha trong sự hiệp nhất của Thánh Linh.
Với nhận thức này, Tôi hết lòng ban Phép Lành của Tôi cho tất cả mọi người.
Tại Điện Vatican ngày 4/12/2003, năm thứ 26 của Giáo Triều Tôi.
GIOAN PHAOLÔ II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 12/12/2003.
Những trích dẫn:
1 John Paul II, Apostolic Letter "Novo Millennio Ineunte," (6 January 2001), 57: AAS 93 (2001), 308; cf. Apostolic Letter "Vicesimus Quintus" (4 December 1988), 1: AAS 81 (1989), 897.
2 Cf. n. 3.
3 Cf. n. 5.
4 N. 6.
5 N 7.
6 Cf. n. 8.
7 N. 10.
8 N. 83.
9 Cf. n. 5.
10 N. 7.
11 N. 9.
12 Cf. n. 10.
13 N. 112.
14 Cf. n. 6.
15 Cf. n. 127.
16 N. 122.
17 Cf. Apostolic Letter "Tertio Millennio Adveniente" (10 November 1994), 36: AAS 87 (1995), 28.
18 Ibid.
19 Conc. Ecum. Vat. II, Dogmatic Constitution on the Church "Lumen Gentium," 26.
20 Conc. Ecum. Vat. II, Constitution on Sacred Liturgy "Sacrosanctum Concilium," 26.
21 Cf. n. 14; John Paul II, Apostolic Letter "Vicesimus Quintus" (4 December 1988), 15: AAS 81 (1989), 911-912.
22 N. 35.
23 "Ordo Lectionum Missae," 7.
24 Ibid., 6.
25 Conc. Ecum. Vat. II, Constitution on Sacred Liturgy "Sacrosanctum Concilium," 106; cf. John Paul II, Apostolic Letter "Vicesimus Quintus" (4 December 1988), 22: AAS 81 (1989), 917.
26 John Paul II, Apostolic Letter "Dies Domini" (31 May 1998), 81: AAS 90 (1998), 763.
27 N. 32: AAS 93 (2001), 288.
28 Cf. n. 13.
29 Vatican City, 2002.
30 Cf. AAS 95 (2003), 5-36.
31 Cf. John Paul II, Apostolic Letter "Vicesimus Quintus" (4 December 1988), 21: AAS 81 (1989), 917.
32 "Institutio Generalis Liturgiae Horarum," 213.
33 Conc. Ecum. Vat. II, Constitution on the Sacred Liturgy "Sacrosanctum Concilium," 90.
34 "Institutio Generalis Liturgiae Horarum," 20.22.
35 Cf. Conc. Ecum. Vat. II, Constitution on the Sacred Liturgy "Sacrosanctum Concilium," 12.
36 Cf. ibid., 13.
37 John Paul II, Lett. enc. "Ecclesia de Eucharistia" (17 April 2003), 52: AAS 95 (2003), 468; Apostolic Letter "Vicesimus Quintus" (4 December 1988), 13: AAS 81 (1989), 910-911.
38 Conc. Ecum. Vat. II, Dogmatic Constitution on the Church "Lumen Gentium," 1.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã gây lộn xộn Phụng Vụ của Giáo Hội Công Giáo?
Vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng 10/2002, tại Pomona, TGP/LA, trong 1 buổi học hỏi của các em Thiếu Nhi Fatima sau giờ Đền Tạ và Thánh Lễ Đầu Tháng, có một em huynh trưởng nam hỏi tôi một câu về phụng vụ căn cứ vào một tài liệu em đã đọc, tờ tài liệu sau đó em đưa cho tôi coi được in ấn đàng hoàng đầy hai mặt với nhan đề “Những Cái Xấu Xa của Thứ Phụng Vụ Mới” (The Evils of The New Liturgy), do Our Lady of the Rosary Library ở 4016 Preston Hwy - Louisville, KY 40213 phổ biến. Những vấn nạn về phụng vụ được em huynh trưởng này đặt ra hỏi tôi được căn cứ vào tài liệu em đọc và em cảm thấy có lý khi cho rằng phụng vụ cũ đúng hơn và tốt hơn phụng vụ mới, vì thực tế cho thấy phụng vụ mới chẳng những gây ra nhiều thứ lộn xộn về phụng vụ mà còn làm cho đời sống thiêng liêng của con người bị sa sút, xa Chúa hơn là gần Ngài v.v. Tôi đã cho em biết 3 điều căn bản tối thiểu sau đây:
Điều thứ nhất, đó là phụng vụ mới như chúng ta đang áp dụng hiện nay là do Công Đồng Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965) canh tân, hay nói cách khác, là do Chúa Thánh Thần linh ứng để các vị Nghị Phụ Công Đồng cùng với Đức Thánh Cha quyết định đi đến chỗ canh tân phụng vụ theo nhu cầu thời đại;
Điều thứ hai, một khi đã được Thánh Thần linh ứng thì tất cả những gì phụng vụ được Công Đồng canh tân đều hợp ý Chúa và có lợi cho các linh hồn trong thời đại mới, chẳng hạn như đi sâu vào Thánh Kinh nhiều hơn qua các bài đọc trong Thánh Lễ, hay như việc cử hành bằng tiếng địa phương để giáo dân có thể tham dự một cách ý thức và chủ động hơn, hoặc như việc làm lễ quay xuống theo chiều hướng nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô hay theo tư thế Chúa Giêsu đối diện với các tông đồ để cử hành việc Người lập Bí Tích Thánh Thể v.v.
Điều
thứ ba, sở dĩ có những lộn xộn về phụng vụ, đến nỗi đã làm mất đi tính cách tôn
nghiêm, uy nghi và sốt sắng của phụng vụ, là do việc con người lạm dụng phụng vụ
hay không thi hành phụng vụ đúng chiều hướng hay tinh thần canh tân phụng vụ của
Công Đồng Chung Vaticanô II mà thôi, chứ không phải bởi những gì Công Đồng đã
canh tân phụng vụ. Tôi đã dẫn một chứng cớ rất cụ thể là ĐHY Mahony, TGP/LA, vào
Tháng Tư năm 1999, đã gửi cho mỗi vị linh mục thuộc thẩm quyền của mình 1 bức
thư, trong đó, một trong những điều ngài đề cập tới là vấn đề không được cầm tay
nhau khi đọc Kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ nữa. Thế mà có một số giáo xứ vẫn không
chịu tuân theo. Trong khi đó, chính giáo xứ không được quí vị có thẩm quyền nhắc
bảo cần phải tuân giữ theo ý Đấng bản Quyền địa phương này, khi ĐHY đến làm Phép
Thêm Sức, lại không có một vị linh mục nào trên bàn thờ dám nắm tay nhau khi đọc
Kinh Lạy Cha cả! Như thế thì vấn đề lộn xộn trong phụng vụ bởi đâu mà ra?
Tờ Truyền Đơn đả phá Thánh Lễ Mới
Sau buổi học hỏi Thứ Bảy Đầu Tháng này, tôi đã bỏ giờ ra đọc tờ tài liệu nhận được từ em huynh trưởng nêu lên vấn nạn về phụng vụ mới thì thấy rằng em đã bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tuyên truyền sai lầm sâu hiểm và cực thủ này. Ngay câu đầu tiên của tờ truyền đơn đả phá phụng vụ mới đã tóm gọn tất cả nội dung của nó: “Bài viết này có ý cho những người Công Giáo tân thời biết về những cái xấu xa cùng với những hậu quả tàn hại của ‘Thứ Thánh Lễ Mới’, bằng việc nhìn đến lịch sử và bản chất của Phụng Vụ Mới, nhìn đến lời tiên tri nói về thứ phụng vụ mới này của một bí nhiệm gia ở Pháp, cũng như nhìn đến những gặt hái của thứ phụng vụ mới này”.
Về lịch sử, ngoài vấn đề nêu lên một số thay đổi như làm lễ quay xuống, rước lễ bằng tay, thừa tác viên Thánh Thể, nữ nhi giúp lễ, bài đọc bằng thổ âm v.v., bài viết này trích lại lời của Thánh Giáo Hoàng Piô IX trong lời công bố văn kiện Quo Primum năm 1570 về Thánh Lễ Latinh Truyền Thống, tức về Thánh Lễ được Giáo Hội Hoàn Vũ cử hành trước Công Đồng Vaticanô II, như sau: “Bất cứ lúc nào trong tương lai sau này không một vị linh mục nào, dù là triều hay dòng, có thể bị buộc phải sử dụng một cách nào khác trong việc dâng Thánh Lễ. Vậy để loại trừ những điều lương tâm bối rối cũng như những nỗi sợ hãi bị giáo hội trừng phạt và kiểm soát, chúng tôi tuyên bố ở đây là, bằng Tông quyền của mình chúng tôi truyền chỉ và qui định rằng lệnh truyền và sắc lệnh của chúng tôi đây là những gì vĩnh viễn và không bao giờ được vãn hồi hay tu chính về pháp lý sau này…”. Chúng ta nên biết rằng sở dĩ Thánh Giáo Hoàng Piô IX cần phải dùng những từ ngữ cương quyết và mạnh mẽ như thế là vì liên quan đến Phong Trào Cải Cách của anh chị em Thệ Phản Tin Lành mới bùng lên trước đó nửa thế kỷ, tấn công Giáo Hội về những lạm dụng Thánh hồi bấy giờ, chứ Ngài không hề có ý truyền một điều gì trái với nguyên tắc và vượt quá thẩm quyền của Ngài, như những gì được Đức Thánh Cha Piô XII nói đến trong Thông Điệp Mediator Dei về Phụng Vụ Thánh dưới đây.
Về hậu quả tàn hại của phụng vụ mới, bài viết này đưa ra các thứ thống kê cho thấy Giáo Hội đang bị khủng hoảng trầm trọng về ơn gọi linh mục và tu sĩ, cũng như về việc giảm sút đi tham dự Thánh Lễ, về tình trạng tín hữu không chấp nhận giáo lý của Giáo Hội về vấn đề ly dị và ngừa thai, về niềm tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể. Vấn đề ở đây là, theo bản văn này, tình trạng khủng hoảng được họ dẫn chứng và được họ cho là hậu quả trực tiếp của vấn đề canh tân phụng vụ: “Đó là những hoa trái của một thứ Tân Phụng Vụ … được nhóm giám mục và thần học gia tân tiến của Công Đồng Vaticanô II phác họa… Cuộc khủng hoảng này nơi Giáo Hội sẽ tiếp tục tàn hại hơn cho đến khi chúng ta trở về với chính thống và kỷ cương… Thánh Lễ Mới không thể từ Thiên Chúa mà ra… Con đường an toàn duy nhất để theo đó là tham dự Thánh Lễ Truyền Thống bằng bất cứ giá nào… Liều mình mất linh hồn đời đời thật là phí phạm. Muốn biết Thánh Lễ Truyền Thống gần mình nhất ở đâu xin gọi chúng tôi ở số…” Tóm lại, theo chiều hướng và chủ trương của bản văn cực thủ tuyên truyền này thì ai xem lễ mới đều bị mất linh hồn.
Có cái lạ ở đây là tại sao bàn tay viết lên những luận điệu này không nêu thêm một lý do nữa cho độc giả suy nghĩ xem sao liên quan đến tình trạng khủng hoảng đức tin của Giáo Hội hiện nay. Lý do đó là chính vì đức tin con người đã bị yếu kém mới xẩy ra tình trạng khủng hoảng sống đạo như thế, và cũng chính vì để cứu vãn tình trạng khủng hoảng này mà Giáo Hội đã phải canh tân phụng vụ để đem con người thời đại về với cảm nghiệm thần linh qua những thích ứng về phụng vụ. Tiếc thay, vì con người không biết trở về với Chúa bằng cảm nghiệm thần linh qua phụng vụ, họ lại càng xa Ngài hơn nữa, điển hình như những gì đã xẩy ra được tờ truyền đơn chống phụng vụ mới liệt kê.
Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây về chiều hướng và tinh thần của Công Đồng Chung Vaticanô II liên quan đến Phụng Vụ để thấy được tầm quan trọng của việc Giáo Hội canh tân phụng vụ này. Tất cả những gì Công Đồng của đầu hậu bán thế kỷ 20 này chủ trương và công bố đều được chất chứa trong 16 văn kiện (4 hiến chế, 9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn). Xét về giá trị theo bản chất của mình thì các văn kiện về Hiến Chế là những văn kiện quan trọng nhất, nồng cốt nhất của Công Đồng, vì liên quan đến các vấn đề trọng yếu. Trong 4 Hiến Chế này có hai Hiến Chế về Giáo Hội, 1 Hiến Chế về Phụng Vụ và 1 Hiến Chế về Mạc Khải. Căn cứ vào số lượng 2 trong 4 Hiến Chế về Giáo Hội cũng đủ cho thấy Công Đồng Chung Vaticanô II là Công Đồng về Giáo Hội.
Thật vậy, theo chiều hướng của Công Đồng, Giáo Hội phải là hay phải trở thành Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes, tên của Hiến Chế mục vụ về Giáo Hội ban hành ngày 7/12/1965) trong Thế Giới Tân Tiến Ngày Nay. Nhưng muốn được thế, Giáo Hội cần phải nhận thức được bản chất “Ánh Sáng Muôn Dân” (Lumen Gentium, tên của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội ban hành ngày 21/11/1964) của mình, với vai trò là bí tích cứu độ, là phương tiện hiệp nhất, là dấu hiệu hiệp thông (x. Lumen Gentium, 1). Và Giáo Hội chỉ có thể làm sáng tỏ bản chất “Ánh Sáng Muôn Dân” này của mình để có thể thực sự mang lại “Vui Mừng và Hy Vọng” cho Thế Giới Tân Tiến Ngày Nay, chỉ duy bằng Cảm Nghiệm Thần Linh mà thôi, đó là nhờ Lời Chúa (Dei Verbum, tên của Hiến Chế về Mạc Khải ban hành ngày 18/11/1965) và nơi Phụng Vụ Thánh (Sacram Liturgiam, tên của Hiến Chế về Phụng Vụ được ban hành ngày 25/1/1964). Việc Công Đồng công bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh đầu tiên và Hiến Chế mục vụ về Giáo Hội cuối cùng có một ý nghĩa hết sức sâu xa, đó là Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến Ngày Nay trước hết phải làm sao được tràn đầy Cảm Nghiệm Thần Linh, vì “Phụng Vụ là tột đỉnh qui về của hoạt động Giáo Hội, đồng thời cũng là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội” (Sacram Liturgiam, 10).
Ý thức được chiều hướng của Công Đồng Chung Vaticanô II về vấn đề chú trọng tới việc canh tân phụng vụ đầu tiên, chúng ta mới thấy được cái thiển cận của tờ truyền đơn. Sở dĩ tôi cho rằng bản văn đả phá Thánh Lễ Mới là tuyên truyền, là vì ngoài lời lẽ và chủ trương quá khích chất chứa trong đó, còn ở chỗ tác giả của bài viết (cá nhân hay một nhóm nào đó bí mật) chỉ trích lại những gì hợp với chủ trương ủng hộ Thánh Lễ Truyền Thống mà thôi, chứ không hề khách quan đề cập tới những tài liệu nói hay, nói tốt, nói có lợi cho Thánh Lễ mới cả, kể cả những văn kiện của chính các Đức Giáo Hoàng. Chẳng lẽ thành phần viết tờ tuyên truyền đả phá Thánh Lễ Mới này lại kém học thức đến như thế, đến nỗi không hề biết đến các văn kiện khác của Giáo Hội về Thánh Lễ Mới, đã dám dại dột và hồ đồ công khai lên tiếng phê bình chỉ trích một Giáo Hội “thánh thiện, duy nhất, công giáo và tông truyền” của mình?!?
Trong cộng đồng Công Giáo Việt Nam cũng đã có một số “trí thức” cũng bị ảnh hưởng bởi những thứ tuyên truyền này và đã cộng tác để tiếp tay tuyền truyền theo chiều hướng như thế trong cộng đồng của mình. Điển hình nhất là một vị ở San Dimas TGP/LA, chủ trương tờ Bản Tin Hoa Kỳ vào giữa thập niên 1990, và một ở San Jose chủ trương tập san Tiếng Loa Cảnh Báo. Hai vị biết 3 ngôn ngữ Anh-Pháp-La này đều gửi những văn bản “nghiên cứu” của mình mang danh xưng trên đây cho tôi. Trong cả hai loại văn bản tuyên truyền chống Giáo Hội và đả phá Thánh Lễ Mới này, vì tinh thần xây dựng cho nhau, nhất là để bảo vệ thế giá của Giáo Hội, tôi đã thẳng thắn và chân tình trực tiếp viết thư gửi cho từng vị. Với vị chủ trương tờ Bản Tin Hoa Kỳ, vị cho rằng Thánh Lễ Mới bị ảnh hưởng của Tin Lành, tôi đã trích lại nguyên văn lời của một trong những vị mục sư Tin Lành đã tham dự Công Đồng Chung Vaticanô II trong Nguyệt San 30 Days cho biết Công Đồng không hề bị Tin Lành chi phối gì cả, để rồi sau đó tôi không còn nhận được Bản Tin Hoa Kỳ như trước nữa. Với vị chủ trương tập san Tiếng Loa Cảnh Báo, vị đã viết thư mời tôi cộng tác cũng là vị cho rằng Đức Phaolô VI sai lầm, tôi đã thẳng thắn nhắc khéo ông là nếu Đức Thánh Cha Phaolô VI trọng vọng, tài đức, khôn ngoan theo bậc của Ngài như thế mà còn sai lầm thì thành phần nhỏ dại, dốt nát, hèn kém như chúng ta sẽ sai lầm đến đâu (tôi cố ý nói đến việc sai lầm phê bình ĐTC!) Tuy nhiên, sau đó tôi vẫn nhận được Tiếng Loa Cảnh Báo thêm mấy số nữa, rồi không bao giờ còn dịp để tiếp tục cho những thứ tuyên truyền chẳng những thiếu tính cách xây dựng mà còn công khai đả phá gây thiệt hại cho biết bao tâm hồn nhẹ dạ này vào chỗ xứng đáng của chúng nữa.
Đó là lý do tôi cảm thấy đã đến lúc, nhân cơ hội bức Tông Thư của ĐTC Gioan Phaolô II về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Chung Vaticanô II 40 năm trước, cần phải trích lại ở đây một số đoạn văn kiện rất quan trọng của Huấn Quyền, hoàn toàn ngược lại với chủ trương chống Thánh Lễ Mới của riêng bản văn trên đây cũng như của chung những người vốn nghĩ Công Đồng Chung Vaticanô II đã sai lầm trong việc canh tân phụng vụ. Trước hết là Thông Điệp Mediator Dei về Phụng Vụ Thánh của ĐTC Piô XII ban hành ngày 20/11/1947, sau đó là Tông Thư Dominicae Cenae của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 24/2/1980 về Mầu Nhiệm và Việc Tôn Thờ Thánh Thể. Xin đọc kỹ những điều được chọn lọc và trích lại ở đây để phân biệt rõ phải trái, để bảo vệ đức tin của mình cũng như của anh em đồng đạo của mình, nhất là để thấy được rằng những lời khẳng định chí lý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở đoạn áp cuối (15) trong Tông Thư về Hiến Chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vaticanô II dịp kỷ niệm 40 năm Công Đồng đã ban hành bản văn kiện đầu tiên này:
• “Nếu không tôn trọng qui chuẩn phụng vụ, có những lúc thậm chí người ta tiến đến chỗ thực hiện những lạm dụng trầm trọng làm lu mờ đi thực tại của mầu nhiệm và tạo nên tình trạng phiền toái cũng như căng thẳng nơi Dân Chúa. Những lạm dụng như vậy không hề có liên quan gì tới tinh thần đích thực của Công Đồng hết, và là những lạm dụng cần phải được Các Vị Mục Tử sửa chữa bằng một thái độ mạnh mẽ khôn khéo”.
(Những chỗ in đậm nơi những lời của Huấn Quyền trên đây hay dưới đây là do người dịch tự ý nhấn mạnh)
Thông Điệp Mediator Dei về Phụng Vụ Thánh của ĐTC Piô XII
50. Phụng Vụ Thánh thật sự bao gồm cả yếu tố thần linh cũng như nhân loại. Yếu tố thần linh, do Thiên Chúa thiết định, con người không được thay đổi bất cứ cách nào. Thế nhưng, các yếu tố về nhân loại có thể được phép làm, tùy theo nhu cầu thời đại, theo đòi hỏi về hoàn cảnh và lợi ích của các linh hồn, cũng như theo Thẩm Quyền Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần…
58. Chỉ có một mình Giáo Hoàng mới được quyền công nhận và thiết lập việc thi hành nào liên quan đến vấn đề tôn thờ Thiên Chúa, đến vấn đề phác họa hay chuẩn nhận những nghi thức mới, cũng như đến vấn đề điều chỉnh những nghi thức Ngài phán đoán thấy cần phải hoàn chỉnh. Về phần mình, các vị Giám Mục có quyền và nhiệm vụ cẩn thận coi sóc việc tuân giữ chính xác những qui định theo qui điển thánh xứng với việc tôn thờ thần linh. Bởi thế, cá nhân, cho dù là giáo sĩ, không được quyền tự quyết định về những vấn đề linh thánh kính tôn này…
60. … Việc sử dụng tiếng Latinh, quen thuộc lâu đời trong Giáo Hội, là một dấu hiệu hiệp nhất tỏ tường và tuyệt vời, cũng là một chất kháng độc hữu hiệu đối với bất cứ vấn đề hư hoại nào về sự thật thuộc tín lý. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng mẻ đẻliên quan đến một số lễ nghi có thể lại sinh nhiều lợi ích cho con người…
61. Một số người có khuynh hướng muốn phục hồi lại hết tất cả bất cứ một lễ nghi cũng như những nghi thức cũ nào. Phụng vụ của các thời xưa thực sự rất đáng được tôn trọng mọi bề. Tuy nhiên không được cho rằng việc sử dụng cổ thức ấy thích hợp và xứng hợp hơn, dù theo quyền lợi hay tính cách quan trọng của việc này, đối với những thời gian hay những tình trạng mới mẻ sau đó, chỉ vì việc sử dụng cổ thức giữ được hương vị và hương thơm của cổ nhân. Những lễ nghi phụng vụ cận đại cũng đáng được tôn kính và tôn trọng. Những lễ nghi này cũng được linh ứng bởi Thánh Thần, Đấng hỗ trợ Giáo Hội ở mọi thời đại cho tới tận thế. Những lễ nghi cận đại này cũng là những nguồn thiêng được Hiền Thê uy nghi của Chúa Giêsu Kitô sử dụng để cổ võ và chiếm được sự thánh thiện cho con người.
62. … Việc phục hồi mọi sự để quay về với cổ thức bằng mọi cách là những gì bất khôn và là những gì bất xứng…
63. … Thật là bất khôn và lầm lẫn đối với lòng nhiệt thành của con người về những vấn đề phụng vụ khi họ muốn trở lại với các lễ nghi và việc sử dụng cổ thức, bằng cách loại trừ những kiểu cách mới mẻ được ấn định bởi Đấng Quan Phòng Thần Linh hầu đáp ứng những đổi thay của hoàn cảnh và trường hợp.
Tông Thư Dominicae Cenae của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về Mầu Nhiệm và Việc Tôn Thờ Thánh Thể.
11.
Trong những năm gần đây, chúng ta còn thấy một hiện tượng khác. Đôi khi, đúng
hơn, rất thường xẩy ra, mọi người tham dự cử hành thánh thể đều lên Hiệp Lễ; vào
một số trường hợp như vậy, theo kinh nghiệm của các vị chủ chăn xác nhận, việc
đến với bí tích Thống Hối để thanh tẩy lương tâm của mình không được chú trọng.
Dĩ nhiên điều này có nghĩa là những người tiến đến bàn Tiệc của Chúa thấy lương
tâm của mình không có gì cả, theo luật khách quan của Thiên Chúa, để giữ họ khỏi
hành động cao trọng và vui mừng trong việc được kết hợp với Chúa Kitô. Thế nhưng,
có những lúc, ở đằng sau hành động này ít nhất còn nấp một tư tưởng nữa, đó là
tư tưởng cho Thánh Lễ chỉ là một bữa tiệc (x.Instituto Generalis Missalis
Romano, 7-8) mà người ta tham dự bằng việc nhận lãnh mình Chúa Kitô để biểu lộ
trước hết mối hiệp thông huynh đệ. Cộng với những lý do này cũng có thể kể đến
thể diện trần thế nào đó và đến việc chỉ biết 'hùa theo'...
Theo lời khuyến dụ (trong lễ nghi chịu chức linh mục), thái độ của linh mục
trong việc tiếp xúc với bánh và rượu đã trở nên mình máu Đấng Cứu Chuộc phải
xứng đáng. Bởi vậy, tất cả chúng ta là những thừa tác viên Thánh Thể cần phải
cẩn thận xét lại những tác động của mình nơi bàn thờ, nhất là cách thức chúng ta
tiếp xúc với của ăn và thức uống là mình và máu của Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở
trong tay của chúng ta: đó là cách thức chúng ta trao Mình Thánh; cách thức
chúng ta tráng chén sau khi cho rước lễ.
Tất cả những động tác này có một ý nghĩa riêng của chúng. Dĩ nhiên phải tránh
việc quá kỹ càng tỉ mỉ, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta tránh tác hành một cách
thiếu kính trọng, tránh vội vàng quá đáng, tránh hấp tấp gây nên gương mù gương
xấu...
Ở một số xứ sở, việc Rước Lễ bằng tay được ban phép. Việc này do các hội đồng
giám mục riêng xin và được Toà Thánh chấp thuận. Tuy nhiên, có những trường hợp
cho thấy thiếu trọng kính đáng tiếc đối với các hình thánh thể, những trường hợp
đáng trách chẳng những về phía các cá nhân có hành động lầm lỗi như vậy, mà còn
về phía cả các vị chủ chăn của giáo hội nữa, những vị không đủ tỉnh táo trước
thái độ của tín hữu đối với Thánh Thể. Có trường hợp còn xẩy ra là, ở những nơi
được phép cho Rước Lễ bằng tay lại không tôn trọng tự do của những người thích
chịu Thánh Thể bằng lưỡi...
12. Nhân danh bản thân mình cũng như nhân danh
tất cả quí huynh, những người anh em đáng kính và yêu dấu trong hàng giám mục,
Tôi muốn xin được thứ tha về mọi sự mà, bất cứ vì lý do gì, bởi bất cứ yếu đuối
nhân loại nào, hấp tấp hay bất cẩn, cũng như bởi cả những lần áp dụng lệch lạc,
một chiều và lầm lẫn những chỉ thị của Công Đồng Chung Vaticanô II, có thể đã
gây ra gương mù và lộn xộn liên quan đến việc cắt nghĩa giáo điều và tôn kính
xứng hợp với bí tích cao trọng này. Và Tôi cầu xin Chúa Giêsu để chúng ta, trong
tương lai, tránh được, theo cách thức chúng ta đối với mầu nhiệm linh thánh này,
những gì có thể làm yếu kém và sai lệch, bất cứ cách nào, ý nghĩa về việc tôn
kính và yêu mến vẫn có nơi các người tín hữu.
13. Trên hết, Tôi muốn nhấn mạnh là những vấn đề của phụng vụ, nhất là của
Phụng Vụ Thánh Thể, không được trở thành một dịp
gây chia rẽ các người Công Giáo và đe dọa đến việc hiệp nhất của Giáo Hội...
Làm sao có thể được, Thánh Thể, một bí tích trong Giáo Hội là sacramentum
pietatis, signum unitatis, vinculum catitatis (Thánh Augustinô), trong lúc này,
lại tạo nên giữa chúng ta một mấu chốt chia rẽ và là một nguồn mạch lệch lạc về
tư tưởng cũng như hành vi, thay vì là một điểm tựa và một nhân trung, đúng như
yếu tính của mình, cho mối hiệp nhất của chính Giáo Hội?
"...Nhân danh sự thật này và tình yêu này, nhân
danh Chúa Kitô tử giá và Mẹ Người, Tôi xin anh em, và Tôi van anh em: Chúng ta
hãy loại trừ tất cả mọi chống đối và chia rẽ,
và chúng ta tất cả hãy hiệp nhất trong sứ vụ cứu độ cao cả này, là giá cả cũng
là hoa trái ơn cứu chuộc của chúng ta".
Riêng tôi, được sống 20 năm ở vào thời Giáo Hội còn tham dự Thánh Lễ Cũ trước khi Thánh Lễ Mới được chính thức áp dụng (từ năm 1968-1970, tùy địa phương được Tòa Thánh công nhận bản dịch Sách Lễ và Sách Bài Đọc sớm hay muộn), tôi tự nhiên cảm thấy hết sức bồi hồi khi được dịp tham dự Thánh Lễ Cũ này hai lần nữa, một vào dịp Giáng Sinh Năm Thánh 2000, và một vào Lễ Phục Sinh 2001, ở một nhà thờ (Sacred Heart) gần nhà tôi nhất thuộc Giáo Phận San Bernadino California. Tất cả mọi sự vẫn y hệt như hơn 30 năm về trước: cũng có linh mục đội mũ gầu và bưng chén lễ đậy khăn tiến ra từ phòng áo, cũng có cảnh cả chủ tế lẫn giúp lễ cúi mình thống hối trước bàn thờ bằng việc thú nhận “mea culpa” (lỗi tại tôi) 3 lần, cũng có hai bài Evan (Phúc Âm) trong lễ, cũng nâng gấu áo lễ của cha khi cha nâng Mình Thánh và Máu Thánh lên cao sau lời truyền phép, cũng quì dọc trước cung thánh để chịu lễ, cũng có đĩa hứng khi cho chịu lễ, cũng có các bài bình ca Latinh rất uy nghi hùng tráng, cũng có các phụ nữ tham dự đồng loạt đội khăn trên đầu v.v.
Bấy giờ tự nhiên tôi thầm nghĩ và ước mong có một sự dung hòa nào đó giữa Thánh Lễ Cũ và Thánh Lễ Mới. Theo tôi, chẳng hạn phần Phụng Vụ Lời Chúa thì quay xuống và bằng tiếng địa phương, phần Phụng Vụ Thánh Thể (cho tới khi hiệp lễ) thì quay lên và bằng tiếng Latinh, tuy nhiên, phần hiệp lễ (từ lúc chúc bình an) cho tới hết lễ thì quay xuống và bằng tiếng địa phương. “Gió muốn thổi đâu thì thổi…nhưng không biết sẽ đi về đâu” (Jn 3:8).
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL